bài 1 :
Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức. Trước những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng lẫy hơn bao giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trôi qua, người ta vẫn không ngừng lần mò, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều nằm khuất dưới lớp bụi mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn không giảm sức hút, vẫn được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn trường tân thanh- kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung đại Việt Nam. Xuyên suốt tác phẩm là nét gợi hình, tả cảnh, lối tự sự độc đáo, đầy sáng tạo. Không ngoại lệ, nghệ thuật tả tâm cũng là yếu tố đẩy Truyện Kiều lên đỉnh cao rực rỡ. Hai mươi dòng lục bát Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ ánh nhìn sâu của Nguyễn Du trong từng xúc cảm mỏng manh của Kiều.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen đầu tiên che phủ lên cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện hiến thân cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha bảo bọc, tình phụ tử sâu nặng và lòng hiếu thảo của đứa con ngoan đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ những kẻ buôn người. Nỗi uất ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam cầm ở lầu cao với cớ rằng để nàng tịnh tâm, bình phục. Ngọn lầu ấy tên là Ngưng Bích, một cái tên quá đẹp so với những cô đơn, tẻ nhạt mà nàng Kiều phải trải qua tại đây. Tọa lạc ở một vùng nổi tiếng với kỹ nghệ ngọc trai thu hút nhiều thương gia, lầu Ngưng Bích như hạt ngọc bích quý giá ngưng đọng, cốt để khóa chặt cái thời xuân sắc tươi đẹp nhất của người con gái họ Vương. Trái hẳn với không khí buôn bán sầm uất bên ngoài, bao trùm lấy không gian trong lầu chỉ là tiếng sóng vỗ ào, ngọn gió biển nặng nề lướt qua, và những suy tư khó nhọc của một phận hồng nhan. Lầu Ngưng Bích nói cho cùng cũng chỉ mới là điểm khởi đầu cho đắng cay về sau của Kiều, nhưng âm điệu buồn da diết của cả đoạn trích đã cho thấy bao đau thương dồn nén trong hồn người, thấm đẫm cả một vùng trời đất rồi lại sắt se vào lòng. Một khoảng mênh mang trĩu nặng trao qua nhận lại giữa người với cảnh đã làm nên khúc thiên sầu Kiều ở lầu Ngưng Bích, đặc biệt là tám dòng tuyệt bút cuối cùng.
Chưa bước vội vào tấm tranh ảm đạm của tâm trạng nàng Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi mở trước không gian nơi lầu son cao đẹp về hình thức nhưng mang đến cho con người ta cái bi thảm về tinh thần. Nếu nói sáu dòng thơ mở đầu là bức họa bằng ngôn từ thì đó thật sự là một bức họa đẹp. Có núi chập chình ngoài xa, có vầng trăng treo trên đỉnh đầu, không gian khoáng đãng mênh mông. Nhưng trong cái cao rộng mỹ mãn của thiên nhiên lại thiếu nét đẹp con người. Khung cảnh mờ ảo chìm trong cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia vắng vẻ đến quạnh hiu, nàng Kiều dường như chỉ là cái bóng nhỏ lạc lõng giữa cảnh vật xung quanh. Một ngày từ sớm cho đến khuya, Kiều chỉ biết quanh quẩn với mây với đèn. Nàng đối cảnh nhiều tới nỗi một phần đất trời quạnh quẽ như hóa tâm trạng, làm dâng đầy cái niềm xót xa đau đáu trong lòng bấy lâu. Càng hướng ra thiên nhiên, Kiều càng thấy rõ sự cô đơn vây kín từng ngày, càng day dứt khôn nguôi, nhớ cha, nhớ mẹ và nhớ chàng Kim ngày nào cùng hẹn ước. Với Kim Trọng, nàng vẫn chưa thể dẹp yên suy nghĩ phụ bạc, chính nàng đã tự tay cắt đứt sợi tơ hồng, đã đẩy chàng vào mỏi mòn trông ngóng. Niềm tin sắt đá vào lời thề dưới trăng đêm ấy sẽ là lưỡi dao nhọn đâm vào tim chàng, khi mà giờ đây, thân phận nàng đã “hạc nội mây ngàn”, không biết rồi lưu lạc về đâu. Kiều bây giờ có lẽ đã thấm thía cái trơ trọi, bơ vơ nơi đất khách, nhưng mối tình đầu đẹp như mộng ngày ấy vẫn gieo cho Kiều khát vọng son sắt, thủy chung. Với cha mẹ, nàng thương xót hình dung cảnh đấng phụ thân, phụ mẫu thấp thỏm chờ trông. Qua cơn biến cố, rồi mẹ cha sẽ như thế nào? Nàng đi rồi, ai lo phụng dưỡng bậc sinh thành? Đành là dứt tình vì cha, nhưng trong tận thâm tâm một đứa con hiếu thảo, bấy nhiêu vẫn chưa thật tròn đạo làm con. Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ công sinh dưỡng, không thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh cánh trong Kiều lúc bấy giờ. Từ những nỗi niềm buồn thương đó, cụ Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh buồn thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm- là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa- những con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Rồi Kiều bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy rầu rầu gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến xanh xanh cả đất trời. Kiều nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Kiều quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng.
Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiến đến choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp cho sự tăng tiến về cảm xúc trở nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vô cùng chính là hệ thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót thương thân phận người trong cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng thơ có sức gợi cảm mãnh liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.
Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó, bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba nghìn dòng thơ Truyện Kiều.
bài 2 :
“… Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy toả bay hương…”
Những vần thơ trên đây của Chế Lan Viên đã gợi thương gợi nhớ trong lòng ta về cuộc đời bạc mệnh của người con gái tài sắc Thuý Kiều, và ta càng xúc động biết bao trước tấm lòng nhân đạo bao la của Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm…” đoạn thơ 8 câu như thấm đầy lệ làm vương vấn hồn ta: “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc - Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên” (Chế Lan Viên)
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc những ngày đầu đã được ngòi bút thiên tài của nhà thơ miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa khôn nguôi về những kiếp người “bạc mệnh” ngày xưa…
Sau khi bị lừa, bị “thất thân” với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều dùng dao tự vẫn. Nghiệp chướng còn dài, nợ đời còn nặng – Nàng đã được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích.
Thân gái nơi đất khách quê người, lo âu bơ vơ. Những ngày bão tố, hãi hùng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy cạm bẫy. Nàng cay
đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng, chán ngán”. Biết lấy ai, cùng ai tâm sự? Nỗi nhớ thương như lớp lớp sóng dâng lểntong lòng. Kiều nhớ thương cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần nương tựa “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? “Nàng nhớ chàng Kim “Bên trời góc bể bơ vơ - Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”.
Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi đau buồn như xé tâm can, cứ xiết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ 8 câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơ đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn đâu nữa cảnh vật thân quen ở vườn Thúy? Tất cả đều một cánh “hoa trôi man mác”, “nội cỏ dầu dầu”, màu xanh xanh cảu mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm…. Chính những cảnh vật ấy, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tan nát lòng nàng suốt đêm ngày.
Mỗi một hình ảnh, một ngôn từ xuất hiện lại gợi ra trong tâm hồn người đọc một trường liên tưởng chua xót về nỗi đau và số kiếp “bạc mệnh” của người con gái đầu lòng Vương Viên ngoại. Mỗi một hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều. “Cánh buồm xa xa” thấp thoáng trên “cửa bể chiều hôm” như gợi ra một hành trình lưu lạc, mờ mịt:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Cánh “hoa trôi man mác” dồi lên đồi xuống giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng là tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô địch:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
“Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xnah “chân mây mặt đất” nơi mờ mịt xa xăm đó là vũ trụ hay là cuộc đời tàn úa của nàng:
“Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Và biển trời dữ dội “ầm ầm tiếng sóng” đang vỗ, đang “kêu”, đang bủa vây, như nói lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Mỗi câu thơ mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân.
Một hệ thống từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm - tạo nên âm điệu hiu hắt, trầm buồn, ghê sợ. Ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ “buồn trông” bốn lần cất lên như một tiếng ai oán, não nùng kêu thương, diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thuý Kiều làm cho người đọc vô cùng xúc động:
“… Buồn trông cửa bể chiều hôm,
… Buồn trông ngọn nước mới sa
… Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
… Buồn trông gió cuốn mặt duềnh…”
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu. Một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm trạng khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong 15 năm trời lưu lạc “thanh lâu hai lựơt, thanh y hai lần”, có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười…
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Cảnh mang hồn người. Cảnh và tình hoà hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Tả cảnh để tả tình, trong cảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.
Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta những xót thương về con người tài sắc bạc mệnh. Một thái độ yêu thương, một tấm lòng nhân hậu, cảm thông, chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc qua hàng thế kỷ nay. Như Tố Hữu đã viết: “Tố Như ơi! lệ chảy quanh thân Kiều”.